I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình phát triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình trong cuộc sống... Bên cạnh, trẻ em đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách. Do đó, cần giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ.
Các kỹ năng tự phục vụ được học tốt nhất thông qua các hoạt động tích cực của trẻ, đối với trẻ mầm non, trẻ thường học các hành vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu dần trở thành kỹ năng của trẻ. Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt động giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham quan... Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những kỹ năng tự phục vụ cần thiết với cuộc sống của trẻ.
Giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non. Kỹ năng tự phục vụ còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để có được kỹ năng tự phục vụ trẻ cần phải có thời gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và bạn bè.
Trên thực tế hiện nay trẻ em Việt Nam được bố mẹ quan tâm chăm sóc rất chu đáo nên việc tự phục vụ đối với trẻ rất ít thực hiện như: Việc mặc quần áo, hay đi giày đi dép.. cũng được bố mẹ đi cho, trẻ dường như không có kỹ năng tự phục vụ. Còn ở nước ngoài việc thực hiện kỹ năng tự phục vụ được diễn ra rất tốt: trẻ tự mặc áo, đóng cúc áo, đi tất, lau nhà, ...
Việc trẻ biết thực hiện kỹ năng sống còn giúp trẻ tự tin, biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống hàng ngày. Nhằm phát triển các tính (tính tự lập, tự phục vụ, tính tự tin, tính tự lập, tính tập trung), thông qua kỹ năng sống hàng ngày trẻ được phát triển tính độc lập và hòa nhập với cộng đồng
Là một giáo viên mầm non, tôi luôn trăn trở và tìm các kinh nghiệm để rèn kỹ năng tự phục vụ một cách có hiệu quả nhất. Và đó cũng là lý do tôi quyết định chọn đề tài: “ Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 5 - 6 tuổi thông qua trò chơi ”.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Kỹ năng là năng lực thực hiện có kết quả một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những tri thức, kinh nghiệm, cách hành động đúng đắn vào thực tiễn. Kĩ năng không phải là bẩm sinh mà là sản phẩm hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân.
Kỹ năng tự phục vụ là hành động tích cực, có liên quan đến kiến thức và thái độ, trực tiếp và hướng vào hoạt động của cá nhân, hoặc tác động vào người khác hoặc hướng vào những hoạt động làm thay đổi môi trường xung quanh, giúp mỗi cá nhân ứng phó có hiệu quả với các yêu cầu, thách thức của cuộc sống hàng ngày.
Trẻ lứa tuổi mầm non có tính tò mò, hay có những hành động bột phát. Chính vì vậy, cô giáo chính là người phải tạo cho trẻ sự thoải mái khi trẻ đến lớp. Trẻ ở lứa tuổi mầm non rất thông minh thích tham gia thích làm việc theo sức của mình, không nhờ cậy ai. Đây là một phẩm chất nhân cách hình thành bằng hoạt động của trẻ trong các hoạt động giáo dục. Kỹ năng tự phục vụ được đặc trưng bởi các hành động thực tiễn bằng chính sức của mình, với thái độ không phụ thuộc, sẵn sàng chịu trách nhiệm, có niềm tin vào năng lực của mình, tự điều khiển, điều chỉnh các hành vi của bản thân.
Trẻ 5 - 6 tuổi, thích tham gia các hoạt động của lớp, biết quan tâm đến tình hình chung của lớp, dễ a dua theo hành vi của số đông, theo “nhận xét” của bạn bè trong lớp để điều chỉnh hành vi của mình. Người lớn nên theo dõi sát sao hành vi, của trẻ để định hướng cho trẻ hành động đúng. Trẻ 5 - 6 tuổi thích giữ vai trò thủ lĩnh trong nhóm bạn. Cho trẻ thay nhau, lần lượt làm “lãnh đạo” trong các vai chơi (Làm kỹ sư trưởng, làm cô giáo, …), các hoạt động (trực nhật, dẫn chuyện, …) sẽ giúp trẻ trải nghiệm vai trò thú vị và đầy trông gai.
Trẻ 5 - 6 tuổi rất thích giao tiếp với bạn bè, trẻ có thể trò chuyện theo nhóm nhỏ, có 3 - 4 em hoặc theo từng đôi. Những trẻ ít nói cũng đã nói chuyện với bạn nhiều hơn, chúng có thể ké vào đồng tình, hưởng ứng, phản đối câu chuyện với bạn. Trẻ trò chuyện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi hoạt động như vui chơi, vẽ vời, hát hò, nghỉ ngơi, đi dạo, … Những câu chuyện của trẻ thường liên quan đến những sự kiện xã hội, thiên nhiên gần gũi, có liên quan tới trẻ, xảy ra trong sinh hoạt hàng ngày.
Trẻ 5 - 6 tuổi đã chú ý đến tuổi tác, quan hệ, ngôn ngữ trò chuyện của trẻ với người lớn khác với bạn. Trẻ phân biết được cách xưng hô với ông bà, bố mẹ, anh em, cô chú, bác. Chính vì vậy, hướng dẫn kĩ năng nói và đặt những câu hỏi để người đối diện có thể nghe, hiểu, suy nghĩ và hồi đáp lại mà không bị xen ngang trở nên cần thiết.
Trẻ 5 - 6 tuổi còn xuất hiện kỹ năng thuyết phục là làm cho người ta cảm thấy đúng mà tin theo, làm theo. Trẻ không chỉ nghe theo lời hướng dẫn mà có thể hướng dẫn cho bạn và em bé làm theo.
Những đặc điểm tâm sinh lý đó, yêu cầu đối với việc tổ chức trò chơi rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đạt hiệu quả cao hơn, cần phải có những hoạt động lôi cuốn trẻ và phải được tất cả trẻ hứng thú tham gia, các hoạt động này có thể linh hoạt trong các hoạt động tổ chức trong lớp, ngoài sân, tại gia đình trẻ …
2. Thực trạng rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ:
Kỹ năng tự phục vụ không thể thiếu được đối với trẻ lứa tuổi mầm non. Đặc biệt là trẻ 5 - 6 tuổi, đã có cơ hội trải nghiệm, tích lũy kinh nghiệm đã có từ 3 - 4 tuổi, 4 - 5 tuổi để trẻ thể hiện tính độc lập, tự phục vụ, tư duy, sáng tạo. Nhưng để phát huy được đúng mục đích yêu cầu của các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ, trong quá trình dạy trẻ các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ tôi thấy có những hoạt động chưa hay, chưa thu hút trẻ. Chính vì vậy, tôi đã nghĩa ra các biện pháp là thiết kế các trò chơi rèn kỹ năng tự phục vụ mới, hay hơn, phù hợp với lứa tuổi với từng chủ đề để hướng dẫn trẻ biết các kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi và phù hợp với chủ đề. Trong quá trình thực hiện tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
a. Thuận lợi:
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn, nắm vững kiến thức kỹ năng dạy trẻ tự phục vụ bản thân.
- Bản thân tôi luôn nghiên cứ tài liệu, tham khảo, xem nhiều băng đĩa cũng như trên mạng internet về kỹ năng tự phục vụ từ đó tôi lại nghĩ ra được các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ mới có tính sáng tạo.
- Được sự đóng góp và giúp đỡ của các đồng nghiệp trong quá trình làm đồ dùng và về những ý tưởng mới cho hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ.
- Được sự phối kết hợp chặt chẽ của phụ huynh để cùng thống nhất chăm sóc dạy dỗ trẻ.
b. Khó khăn:
- Giáo viên phải có hiểu biết và vốn kiến thức phong phú về các kỹ năng tự phục vụ.
- Việc tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đòi hỏi phải có sự linh hoạt và tính sáng tạo cao.
- Mức độ khó hay dễ của các kỹ năng không giống nhau. Có những kỹ năng vô
cùng đơn giản nhưng cũng có những kỹ năng phức tạp đòi hỏi trẻ phải tư duy trong quá trình thực hiện.
-Thời gian tổ chức cho trẻ thực hiện rất hạn hẹp vì một kỹ năng không thể diễn ra trong suốt cả một hoạt động của trẻ mà nó chủ yếu chỉ được lồng ghép và tích hợp vào các hoạt động mà thôi.
- Trong lớp còn một số trẻ rụt rè, nhút nhát, thiếu tự tin và nhiều trẻ tăng động không tập trung, không thích tham gia vào các hoạt động tập thể.
- Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy những biện pháp thông thường, bài soạn dập khuôn, cứng nhắc chưa có biện pháp mới tác động thì chất lượng đạt được trên trẻ về các mức độ trung bình và yếu còn ở mức rất cao, số trẻ nhận biết được các kỹ năng tự phục vụ còn thấp. Vì vậy, tôi đã suy nghĩ làm thế nào để có biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi.
3. Biện pháp đã tiến hành:
Từ những thuận lợi và khó khăn trên tôi đã áp dụng các biện pháp tổ chức các trò chơi rèn kỹ năng tự phục vụ trong trường như sau:
3.1. Trò chơi 1: Bé khéo tay
a. Mục đích:
- Rèn khả năng cởi/ cài cúc áo, chọn trang phục phù hợp với thời tiết, hoạt động.
b. Chuẩn bị:
- Các loại quần áo mặc hàng ngày của trẻ: Quần áo mùa đông, mùa hè, áo chui đầu, áo cài cúc,…
c. Cách chơi:
Cô chia trẻ thành 2 bạn là một nhóm chơi. Các bạn có nhiệm vụ đóng và mở cúc áo theo hiệu lệnh của cô cho trẻ thực hiện vào các tình huống thích hợp: Khi trẻ cần cởi bớt hoặc mặc quần áo. Cô giáo khuyến khích trẻ tự cởi/ cài cúc áo giúp bạn. Cô chỉ dẫn cho trẻ cởi/ cài lần lượt từ cúc trên tới cúc cuối cùng.
d. Luật chơi: Trẻ chơi theo tình huống cô đưa ra.
3.2.Trò chơi 2: Bàn tay khéo léo.
a.Mục đích:
- Rèn kỹ năng biết sử dụng kéo an toàn, cắt giấy. Biết để đồ dùng đúng nơi quy định và bỏ rác đúng nơi quy định.
b. Chuẩn bị:
- Kéo dành cho trẻ em, túi kẹo, giấy màu
c. Cách chơi:
Cô chia 3 trẻ ngồi một bạn và thực hiện tình huống khi mời khách, trẻ cần ăn kẹo, bánh: Trẻ tự chuẩn bị một cái kéo, một túi kẹo, một đĩa. Cô hướng dẫn trẻ: Để túi kẹo trên tay, tay trái cầm một đầu túi kẹo, tay phải cầm kéo cắt dọc theo miệng túi kẹo. Khi cắt nhìn chăm chú vào túi kẹo và kéo. Cắt xong, trút túi kẹo vào đĩa, để kéo vào nơi quy định. Khi ăn, bỏ vỏ vào túi kẹo. Ăn xong, bỏ túi vào thùng rác.
d. Luật chơi: Chơi theo yêu cầu của cô.
3.3. Trò chơi 3: Bé nhanh tay
a.Mục đích:
- Rèn kỹ kéo khóa áo, quần, ba lô.
b.Chuẩn bị:
- Các loại quần áo mặc hàng ngày và ba lô của trẻ: Quần áo mùa đông, mùa hè, ba lô có khóa kéo
c. Cách chơi:
Cô cho 2 trẻ đứng đối diện nhau và cho trẻ thực hiện vào các tình huống thích hợp: Khi trẻ cần cởi bớt hoặc mặc quần áo. Cô giáo khuyến khích trẻ tự kéo khóa áo giúp bạn. Cô chỉ dẫn cho trẻ kéo so hai vạt áo cài khóa vào nhau, một tay giữ đầu trước khi kéo ra, kéo vào.
d. Luật chơi: Chơi theo yêu cầu
3.4.Trò chơi 4: Bé biết vệ sinh cá nhân sạch sẽ
a.Mục đích:
- Rèn cho trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân, môi trường xung quanh.
b. Chuẩn bị:
- Khăn lau
c. Cách chơi:
Cô chia trẻ thành nhóm có 5 -7 trẻ đang ngồi vòng tròn khi bạn ho trẻ phải làm như thế nào? Cô hướng dẫn trẻ khi ho dùng tay che miệng lại và quay mặt đi hướng khác không được ho và mặt người khác. Sau đó đi rửa tay và lau sạch miệng , tay.
d. Luật chơi: Chơi tự do
3.5. Trò chơi 5: Chiếc lược thông minh.
a.Mục đích:
- Rèn cho trẻ có kỹ năng giữ gìn vệ sinh thân thể sạch sẽ, gọn gàng.
b.Chuẩn bị:
- Lược, gương, dây buộc tóc.
c. Cách chơi:
Cô chia trẻ thành nhiều nhóm trong mỗi nhóm lại có 2 bạn là 1 cặp chải tóc và buộc tóc cho bạn nếu có thể. Cô hướng dẫn trẻ cầm lược bằng tay phải, chải tóc từ trên đầu xuống đến hết chiều dài của tóc dùng tay trái cầm hết tóc và dùng dây buộc lại, cô khuyến khích trẻ chải tóc rồi buộc tóc cho mình và buộc tóc cho bạn. Trong quá trình chải tóc và buộc tóc soi gương để buộc tóc cho gọn gàng.
d. Luật chơi: Chơi tự do
3.6. Trò chơi 6: Đôi đũa thần kỳ.
a.Mục đích:
- Rèn luyện sự khéo léo.
b.Chuẩn bị:
- Đũa
c.Cách chơi:
Cô tổ chức cho trẻ tham gia chơi hoạt động góc gia đình cho trẻ dùng đũa gắp các thức ăn bằng đồ chơi, bạn nào biết gắp được các món ăn bạn đó sẽ dành chiến thắng. Cô hướng dẫn trẻ cầm đũa bằng tay phải dùng ngón cái và ngón trỏ điều kiển đũa, các ngón còn lại đỡ đũa. Khi cầm không cao quá và không thấp quá.
d. Luật chơi: Đoàn kết trong nhóm chơi
3.7. Trò chơi 7: Chung sức
a.Mục đích:
- Rèn khả năng kỹ năng nhận nhiệm vụ, thực hiện nhiệm vụ đến cùng, quan tâm đến bạn, trình bày bàn ăn đẹp đẽ, giới thiệu món ăn, mời cơm, lau bàn sạch sẽ.
b.Chuẩn bị:
- Bát, đĩa, thìa, khăn ăn.
c. Cách chơi:
Trong giờ ăn cơm trẻ trực nhật hướng dẫn các bạn lau bàn, lấy thìa đi tới bàn ăn. lau bàn sau khi ăn. Sau khi các bàn đã ăn xong, trực nhật nhắc nhở các bạn bê ghế và để bát, đĩa, thìa, khăn ăn, trẻ biết gấp bạt trải nề gọn gành đúng nơi quy định.
d. Luật chơi: Đoàn kết trong nhóm chơi
3.8.Trò chơi 8: Chiếc chổi tài ba
a.Mục đích:
- Rèn khả năng khéo léo, nhanh nhẹn.
b.Chuẩn bị:
- Chổi, thùng rác
c. Cách chơi:
Cô tổ chức cho trẻ vệ sinh lớp học cùng cô, hướng dẫn trẻ dùng chổi để vệ sinh cho sạch. Bằng cách cầm chổi bằng 2 tay để quét rác trên sàn cho sạch, quét lần lượt từ trên xuống dưới rồi gom rác lại 1 chỗ và dùng hót rác hót vào thùng
rác.
d. Luật chơi: Đoàn kết trong nhóm chơi
3.9. Trò chơi 9: Đồng đội.
a. Mục đích:
- Rèn sự khéo léo, tự tin biết đội mũ, cởi mũ. Lấy và cất mũ đúng nơi quy định. Nghe và làm theo hướng dẫn.
b. Chuẩn bị:
- Các loại mũ của trẻ: Mũ mùa đông, mũ mùa hè, mũ bảo hiểm, mũ bơi,…
c. Cách chơi:
Trong giờ hoạt động ngoài trời cô cho trẻ thực hiện các tình huống thích hợp: Đội mũ chống nắng, chống lạnh, đi xe máy, đi chơi … Người lớn hướng dẫn trẻ chọn mũ thích hợp với tình huống, soi gương để đội mũ cho ngay ngắn, cài quai, cởi mũ, lấy mũ và cất mũ nhẹ nhàng, đúng nơi quy định.
d. Luật chơi: Đoàn kết trong nhóm chơi.
3.10. Trò chơi 10: Đôi dép thần kỳ
a.Mục đích:
- Rèn luyện trẻ biết đi dép và cởi dép. Để dép đúng nơi quy định.
b. Chuẩn bị:
- Các loại dép của trẻ: Dép có sanđal, dép xỏ ngón, dép lê,…
c. Cách chơi:
Cô tổ chức cho trẻ chơi trong các thời điểm sinh hoạt hàng ngày, khi trẻ cần đi/ cởi dép. Người lớn hướng dẫn trẻ chọn dép đi cho phù hợp với tình huống: Đi ra đường thì đi dép sanđal, đi trong nhà thì đi dép lê, dép xỏ ngón. Hướng dẫn trẻ đi dép sanđal: Ngồi vào ghế thấp, để dép phía trước, dép phải để phía chân bên phải, dép trái để phía chân bên trái, lần lượt đi từng chiếc. Xỏ chân vào dép, kéo quai dép lên, cài khóa lại cho chắc chắn. khi cởi dép thì làm ngược lại các bước trên. Dùng tay phải xách quai 2 chiếc dép lên, cất vào giá dép. Không dẫm lên quai dép, bỏ khóa, lấy tay ôm, cầm vào để dép, không đập 2 chiếc dép vào nhau.
d. Luật chơi: Trẻ đoàn kết.
3.11. Trò chơi 11: Đôi giày khéo léo.
a. Mục đích:
- Đi và cởi giày. Buộc dây và tháo giày. Để dày đúng nơi quy định.
b. Chuẩn bị:
- Các loại giày của trẻ: Giày da, giày vải, giày thể thao, dây giày có đầu dây bịt nhựa, kim loại.
c. Cách chơi:
Cô tổ chức cho trẻ chơi trong thời điểm sinh hoạt hàng ngày, khi trẻ cần đi/ cởi giày. Người lớn hướng dẫn trẻ chọn đi cho phù hợp với tình huồng: Đi chơi, đi tập thể thao, đi dạo, đi leo núi, đi xe đạp … Hướng dẫn trẻ đi giày, tương tự như đi dép: Ngồi vào ghế thấp, để giày phía trước, giày phải để bên chân phải, giày trái để bên chân trái, lần lượt đi từng chiếc vào đúng bên. Xỏ chân vào giày, kéo đằng sau giày lên, xỏ dây, song lại dây, so dây chắc chắn, thắt dây. Khi cởi giày thì làm ngược lại các bước trên. Dùng tay phải xách quai 2 giày lên, cất vào giá dép.
d. Luật chơi: Trẻ đoàn kết
3.12. Trò chơi 12: Chiếc dao kỳ diệu
a. Mục đích:
- Dùng dao an toàn. Cắt bánh/quả. Để đồ dung đúng nơi quy định.
b. Chuẩn bị:
- Dao nhựa, hoặc dao không sắc, không nhọn, thớt gỗ nhỏ nhẹ, bánh (khoai, bánh ga tô) hoặc quả dễ cắt (chuối, dưa chuột, cà rốt, giò, xúc xích), bát, đĩa.
c. Cách chơi:
Cô tổ chức cho trẻ chơi trong thời điểm sinh hoạt hàng ngày, hay trong hoạt động góc kỹ năng thực hành cuộc sống: Mỗi trẻ một dao, một quả/ bánh, một thớt, một bát. Hướng dẫn trẻ: Rửa sạch tay, sạch quả trước khi tiến hành công việc. Đặt củ ( Quả, thức ăn...) lên thớt, một tay giữ chặt Đặt củ ( Quả, thức ăn...), một tay cầm dao, cắt lần lượt từng lát nhỏ. Khi cắt nhìn chăm chú vào Đặt củ ( Quả, thức ăn...). Cắt xong, cho đặt củ ( Quả, thức ăn...) bày vào bát, đĩa. Sau đó, dọn dao, thớt vào nơi qui định. (có thể cho trẻ dùng dao để cắt bánh ga tô trong dịp sinh nhật của mình).
4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm:
Trong năm học: 2020 - 2021 là năm thực hiện chuyên đề lồng ghép các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mầm non lớp tôi đã đạt được một số kết quả sau:
4.1. Đối với giáo viên:
Tất cả giáo viên ở tổ mẫu giáo lớn nói chung và bản thân tôi nói riêng đều được nhận thức về tầm quan trọng của hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ. Đặc biệt là đã nắm vững nội dung, phương pháp, hình thức đổi mới của hoạt động này. Khác hẳn với trước đây, giờ hoạt động các tiết học mà hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ bây giờ là một niềm say mê sáng tạo của giáo viên, muốn thể hiện trí tuệ, năng lực của mình qua một tiết dạy sinh động, hấp dẫn trẻ.
Những năm lúc mới bước vào giảng dạy phương pháp tôi chưa linh hoạt sáng tạo nên kết quả của các kỹ năng lồng ghép vào tiết học chưa cao. Từ khi sử dụng các biện pháp trên nên nghệ thuật lên lớp của tôi đã có một cách sáng tạo, linh hoạt. Do vậy, bản thân không ngừng phấn đấu học hỏi ở bạn bè đồng nghiệp, qua các phương tiện thông tin đại chúng .... Bên cạnh những thành tích trên tôi còn phải cố gắng nhiều hơn nữa, trau dồi kinh nghiệm chuyên môn để phát huy và đạt được kết quả cao hơn nữa trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
4.2. Đối với trẻ:
- 100% trẻ được học đầy đủ các kỹ năng phù hợp với lứa tuổi mẫu giáo lớn 5 - 6 tuổi trong chương trình đổi mới của Bộ giáo dục mầm non.
- Qua việc thực hiện các biện pháp mới sáng tạo trong việc lồng ghép các kỹ năng tự phục vụ vào kế hoạch của trường tôi đã thu được kết quả sau:
* Kết quả của trẻ theo đánh giá của lớp:
| TT | Kỹ năng tự phục vụ | Số trẻ KS | Đầu năm | Cuối năm |
| Đạt | Chưa đạt | Đạt | Chưa đạt |
| 1 | Trẻ biết cởi, cài cúc áo | 41 | 74% | 26% | 95% | 5% |
| 2 | Tập dùng kéo | 41 | 80% | 20% | 98% | 2% |
| 3 | Kéo khóa | 41 | 83 % | 17% | 94% | 6% |
| 4 | Cách xử lý khi ho | 41 | 87% | 13 % | 100% | 0% |
| 5 | Chải tóc | 41 | 73% | 26 % | 95% | 5% |
| 8 | Quét rác trên sàn | 41 | 80% | 20% | 93% | 7% |
| 9 | Đội mũ | 41 | 83 % | 17% | 93% | 7% |
Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy số trẻ có được các kỹ năng tự phục vụ đã tăng lên rõ rệt, số trẻ ở các mức độ trung bình và yếu giảm xuống đáng kể. Vì vậy có thể kết luận rằng với những biện pháp thông thường dập khuôn, máy móc như thực trạng hiện nay thì chất lượng thu được trên trẻ rất thấp. Nếu chúng ta biết vận dụng sáng tạo linh hoạt các biện pháp như tôi đã làm ở trên thì hiệu quả của việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ sẽ được nâng lên rõ rệt.
4.3. Đối với phụ huynh:
Những năm chưa sử dụng biện pháp phối kết hợp với phụ huynh một cách tích cực dẫn đến kết quả đồ dùng trực quan còn đơn điệu chưa phong phú. Nhưng từ khi phối hợp với phụ huynh bản thân tôi đã chú ý vận dụng tuyên truyền một cách thuyết phục cho các hoạt động rèn kỹ năng tự phục vụ. Đặc biệt phụ huynh rất quan tâm tới việc tự lập của con, thường xuyên trao đổi tình hình học tập của trẻ ở lớp để về nhà rèn luyện thêm như tự mặc áo, đi giày, kéo khóa áo... Tạo cho cô giáo một điểm tựa tốt hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận:
- Kỹ năng tự phục vụ có tầm quan trong rất lớn đối với sự phát triển toàn diện và đó là một xã hội thu nhỏ đối với trẻ. Giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu được học cách làm việc phù hợp với sức của bản thân trẻ. Góp phần nâng cao nhận thức, phát triển các giác quan, tăng cường thể lực cho trẻ, giúp trẻ trở thành những người lao động tài giỏi trong tương lai, nhất là những trẻ chơi một cách hăng hái, hoạt động nổi bật trong khi chơi thường cũng chính là những đứa trẻ thông minh tháo vát và biết tổ chức trong cuộc sống. Bằng việc tổ chức cho trẻ chơi các hoạt động kỹ năng tự phục vụ, tôi đã giúp trẻ được thỏa mãn nhu cầu vui chơi, tự phục vụ bản thân, góp phần thực hiện tốt cuộc vận động “ Xây dựng trường học thân thiện - Học sinh tích cực”. Việc tổ chức các kỹ năng tự phục vụ trong các trường học nói chung và trường mầm non nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng, vì nó góp phần hình thành ở trẻ một nhân cách tốt. Những kỹ năng tư phục vụ mà tôi đã thiết kế có thể dùng được cho nhiều độ tuổi khác nhau, trẻ dễ tiếp thu, dễ chơi.
- Để gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật lên lớp gây hứng thú cho trẻ đặc biệt cô giáo cần phải tích cực nghiên cứu tìm tòi lựa chọn những kỹ năng hay, hấp dẫn, phù hợp với lứa tuổi.
- Cô giáo phải linh hoạt sáng tạo và biết tận dụng mọi cơ hội để tổ chức các hoạt động rèn kỹ năng cho trẻ.
2. Khuyến nghị:
- Bổ sung thêm các tài liệu để giáo viên tham khảo, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
- Tạo điều kiện cho giáo viên đi thăm quan, học hỏi các trường bạn để nâng cao chất lượng chăm sóc và giáo dục trẻ.
Trên đây là bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của ban giám hiệu nhà trường và bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến của tôi thêm hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!